Lưu trữ

Archive for the ‘Kháng chiến chống Mỹ’ Category

“Thanh niên quê tôi và chiếc gậy Trường Sơn”

Tháng Tư 7, 2011 Bình luận đã bị tắt

Câu chuyện bắt đầu từ trong công tác xây dựng lực lượng vũ trang của xã Hòa Xá, huyện ứng Hòa, tỉnh Hà Tây trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975). Như bao làng quê khác của Việt Nam, Hòa Xá là một xã nằm trên triền sông Đáy, quanh năm xanh tươi với những ruộng lúa, bãi ngô… Phong trào thi đua yêu nước: “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng”, “Gạo không thiếu một cân, quân không thiếu một người” trên toàn quốc đã thôi thúc Hòa Xá hưởng ứng phong trào với quyết tâm cao nhất và mang bản sắc văn hóa của quê hương. Thế là sáng kiến xây dựng “Phân đội dự bị” (gọi vui là “Bộ đội làng”) chuẩn bị mọi mặt cho thanh niên Hòa Xá sẵn sàng nhập ngũ được Đảng ủy, ủy ban hành chính xã đề ra và được toàn thể nhân dân nhiệt tình hưởng ứng. Thành phần tham gia “Phân đội dự bị” là những thanh niên ở độ tuổi từ 17 đến 35 (sau này có các nữ thanh niên tham gia), có sức khỏe, có đạo đức phẩm chất tốt, là nòng cốt tiêu biểu cho tinh thần hăng hái trong mọi phong trào hoạt động của địa phương. “Phân đội dự bị” được huấn luyện theo chương trình kỹ thuật, chiến thuật sát với yêu cầu cơ bản, cần thiết đối với mỗi chiến sĩ bộ binh trong quân đội thường trực. Thời gian huấn luyện của “Phân đội dự bị” trong một năm kéo dài từ một đến hai tháng. Song song với chương trình học tập kỹ thuật, chiến thuật cơ bản, mỗi tuần “Phân đội dự bị” tổ chức một cuộc hành quân đường dài, vượt qua một số địa hình phức tạp, có mang vác vũ khí, trang bị giống như quy định của mỗi chiến sĩ trên đường vào chiến trường chiến đấu. Thực tiễn hành quân, luyện tập vất vả của các chiến sĩ trong “Phân đội dự bị “Hòa Xá đã nảy sinh việc dùng gậy chống khi hành quân – một công cụ rất đơn giản mà hữu hiệu, tiếp thêm sức mạnh cho chiến sĩ vượt qua những địa hình phức tạp… Từ sáng kiến đó, bắt đầu năm 1966, ngày Hội giao quân nào của Hòa Xá cũng có thêm nghi thức: Các cụ trong Hội Phụ lão xã trao gậy (được gọi là “gậy Trường Sơn”) cho những thanh niên nhập ngũ, để họ được tiếp thêm sức mạnh của quê hương trong những cuộc hành quân gian khổ, dài ngày sớm vào chiến trường đánh giặc. Và chiếc “gậy Trường Sơn”- kỷ vật truyền thống của quê hương Hòa Xá đã theo bước chân người chiến sĩ đi khắp nẻo chiến trường. Rất nhiều người trong số họ, sau khi vượt qua những chặng đường khó khăn, gian khổ của Trường Sơn đến được với chiến trường, đã gửi những chiếc gậy về lại quê hương để báo công.

Sự sáng tạo trong công tác xây dựng lực lượng dự bị của Hòa Xá cùng với việc tặng “gậy Trường Sơn” cho các thanh niên nhập ngũ của Hội Phụ lão xã đã mang lại những thành tích to lớn cho địa phương trong phong trào “chi viện nhân tài, vật lực cho tiền tuyến đánh giặc” những năm chống Mỹ, cứu nước. Trong 10 năm (1965-1975), Hòa Xá đã tổ chức 23 đợt đưa con em mình lên đường nhập ngũ với tổng số 568 người (bằng 16,8 % tổng dân số toàn xã). Tuy phải trải qua nhiều gian khổ, hy sinh nhưng không một chiến sĩ nào của Hòa Xá thoái thác nhiệm vụ… Rất nhiều người trong số họ đã lập được những chiến công xuất sắc được Nhà nước, quân đội tặng thưởng huân chương, huy chương các loại và các danh hiệu cao quý khác…

Câu chuyện tặng “gậy Trường Sơn” vượt ra khỏi phạm vi làng, xã và trở thành biểu tượng của phong trào thanh niên hăng hái viết đơn xin tòng quân, vượt qua mọi khó khăn gian khổ sớm ra chiến trường đánh giặc trong thanh niên cả nước. Phong trào tặng “gậy Trường Sơn” được phát triển và nhân rộng khi Nhạc sĩ Phạm Tuyên trong một đợt đi thâm nhập thực tế để sáng tác đã về Hòa Xá. Rung động trước tình cảm của quê hương với người chiến sĩ qua nghi lễ tặng “gậy Trường Sơn” trong ngày thanh niên nhập ngũ, ông đã sáng tác bài hát “ Thanh niên quê tôi và chiếc gậy Trường Sơn” nổi tiếng, trước đây và đến nay có biết bao thế hệ thanh niên từng thuộc và hát say sưa./.

Thu Trang

Thành cổ Quảng Trị và cuộc chiến 81 ngày đêm

Tháng Tư 3, 2011 Bình luận đã bị tắt

QĐND Online – Thành Quảng Trị nằm giữa lòng thị xã Quảng Trị, cách quốc lộ 1A 11km; cách thị xã Đông Hà-tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Trị hiện nay 14km và cách thành phố Huế hơn 60km. Khu vực này trước đây là địa phận thuộc các làng Thạch Hãn, Cổ Vưu ( Trí Bưu) và Cổ Thành, nay thuộc Phường II, thị xã Quảng Trị. Phía tây được ngăn cách bởi sông Thạch Hãn, con sông lớn nhất của tỉnh Quảng Trị. Phía Bắc là sông Vĩnh Định, một chi lưu của sông Thạch Hãn. Phía đông và đông nam là cánh đồng của hai huyện Triệu Phong và Hải Lăng. Đây chính là hệ thống giao thông thủy quan trọng nối liền thị xã Quảng Trị với các vùng trong tỉnh và đặc biệt là với thành phố Huế.

Thành phố Quảng Trị được khởi dựng vào năm 1801 với lý do: trước đó, trung tâm hành chính lỵ sở của tỉnh Quảng Trị đặt ở phường Tiên Kiên, huyện Đông Xương, đến năm 1009, một năm sau khi dinh Quảng Trị trở thành trực lệ Kinh sư (cùng với Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Đức), nhận thấy vị trí đóng lỵ sở của Quảng Trị ở Ái Tử- Tiên Kiên không đắc địa, khó có thể hội đủ các điều kiện để trở thành một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa cho một vùng trực lệ Kinh sư nên vua Gia Long (nhà Nguyễn) cho chuyển lỵ sở về xã Thạch Hãn, huyện Hải Lăng như hiện nay.

Quá trình xây dựng thành Quảng Trị, từ khi khởi công dưới thời Gia Long đến khi hoàn thiện dưới thời Minh Mạng, kéo dài trong gần 28 năm (1809-1837). Bộ phận kiến trúc chính tạo ra diện mạo vòng quanh của thành Quảng Trị là Phòng thành (Thành ngoài). Cùng những công trình kiến trúc mang các chức năng khác nhau liên quan đến một trung tâm hành chính, được xây dựng và bố trí bên trong Nội thành theo mô hình chung như nhiều tỉnh thành khác. Vì thế, nếu gọi theo đúng nghĩa thành quách (với đầy đủ hai lớp thành là thành trong và thành ngoài) hay dựa theo lối cấu trúc của kinh thành Huế bao gồm Thành ngoại (tức kinh thành) và Thành nội (Đại nội tức Hoàng thành và Tử cấm thành, thì thành Quảng Trị chỉ có Thành ngoài, không có Thành trong. Thành ngoài (Phòng thành) được xây bằng gạch, tổng thể có hình vuông. Thành được cấu trúc theo kiểu Vauban. Đặc điểm của thành lũy cấu trúc theo kiểu Vauban là cả một hệ thống phức hợp các công trình kiến trúc liên quan chặt chẽ với nhau và mang tính chất phòng thủ rất vững chắc. Nhìn toàn cục nó bao gồm các bộ phận chính, kể từ trong thành ra bên ngoài như sau: lũy, pháo đài, tường bắn, những pháo nhãn hay pháo môn, đường phòng hộ chân thành ngoài, hào, đường ngoài hào hay gọi là thành giai, đường kín.

Thành cổ Quảng Trị không chỉ nổi tiếng với kiểu kiến trúc Vauban, Phòng thành mang tính bền vững, ổn định cao; các công trình kiến trúc ở Nội thành thường được thay đổi theo tính chất, công năng và mục đích sử dụng (tùy theo từng thời kỳ lịch sử) mà nổi tiếng hơn (cả trong nước và trên thế giới) là chiến công trụ bám, đánh địch kiên cường trong suốt 81 ngày đêm, hay còn gọi là Đợt 1 của Chiến dịch phòng ngự Quảng Trị (28-6-1972/16-9-1972) của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, đánh bại cuộc phản công của quân đội Sài Gòn được không quân và hải quân Mỹ yểm hộ. Kết quả cả ba đợt trong Chiến dịch phòng ngự Quảng Trị (28-6-1972/31-1-1973), quân và dân ta đã loại ra khỏi vòng chiến đấu 29.000 tên địch (bắt 226), diệt 1 lữ đoàn và 12 đại đội; phá hủy 345 xe tăng, thiết giáp (thu 13 xe), 273 khẩu pháo, bắn rơi 169 máy bay, bắn chìm 9 tàu chiến, thu gần 1.000 súng các loại, giữ vững khu vực giải phóng bắc sông Thạch Hãn. Chiến thắng Quảng Trị góp phần to lớn vào việc buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Pa-ri (27-1-1973) về chấm dứt chiến tranh lập lại một nền hòa bình ở Việt Nam và rút toàn bộ quân chiến đấu Mỹ ra khỏi miền Nam nước ta.

THÀNH HÀ

Cửa biển Lộc An- điểm hẹn đường Hồ Chí Minh trên biển

Tháng Tư 3, 2011 Bình luận đã bị tắt

QĐND Online – Cửa biển Lộc An thuộc địa phận hai xã Lộc An, huyện Long Đất và Phước Bửu, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Trước 1945, vùng đất này thuộc tổng Phước Hưng Hạ, Phủ Phước Tuy, tỉnh Bà Rịa.

Hoàng hôn trên biển Lộc An. Những giá trị cổ điển thì không bao giờ lỗi thời… Ảnh Internet

Di tích lịch sử cách mạng cửa biển Lộc An trải dài 15km thuộc hạ lưu sông Ray, con sông bắt nguồn từ suối Gia Liên. Dọc hai bên sông Ray là màu xanh bạt ngàn của khu rừng nguyên sinh nhiệt đới ngập mặn. Rừng có khoảng 200 loài thực vật thuộc 60 họ, trong đó có nhiều loại gỗ quí: cẩm lai, căm xe, gõ, bằng lăng,… ngoài ra còn có các loài thú sinh sống, trong đó có cả những loài thú quí hiếm nằm trong sách Đỏ.

Với vị trí chiến lược quan trọng, ngay từ những năm đầu kháng chiến chống Pháp, cửa biển Lộc An đã trở thành tuyến giao thông nối liền giữa miền Bắc và miền Đông Nam Bộ. Vào tháng 9/1946 tại cửa biển Hồ Tràm, xã Phước Bửu, huyện Xuyên Mộc, cách Lộc An 5km về phía bắc, chuyến hàng của Trung ương chở vũ khí đã cập bến an toàn góp phần quan trọng giúp quân và dân tỉnh Bà Rịa gây dựng, phát triển lực lượng vũ trang đánh thực dân Pháp. Từ 1952 vùng biển này là địa bàn hoạt động của tiểu đoàn 230 – tiểu đoàn vận chuyển hàng chiến lược cho miền Đông Nam Bộ.

Đầu 1961, Trung ương Cục miền Nam, sau khi nghiên cứu địa hình đã quyết định chọn cửa biển Lộc An làm điểm đón tàu vận chuyển vũ khí của “Đường Hồ Chí Minh trên biển” từ miền Bắc vào.

Chuyến tàu đầu tiên do đồng chí Lê Văn Một làm thuyền trưởng được khởi hành đêm23/9/1963 từ đảo Cát Bà (Hải Phòng) chạy ngược về phía đảo Hải Nam (Trung Quốc) rồi quay mũi tàu theo hải phận quốc tế để tới phía Nam. Đêm 3/11/1963 tàu cập bến Lộc An. Con tàu dài 30m, rộng 5,8m, trọng tải 20 tấn. Khi con nước cường đang lên mạnh, thuyền trưởng Lê Văn Một cho nổ máy tăng ga hết tốc lực để chạy đua với con nước vì trời đã sắp sáng. Gần tới bến thì một cồn cát ngầm nhô lên chặn mũi con tàu lại. Trời sáng dần. Ban chỉ huy đoàn vận chuyển đã huy động lực lượng chuyển toàn bộ số vũ khí về địa điểm đã qui định; đến 10 giờ trưa thì số hàng trên tàu đã giải tỏa an toàn. Lúc này, chiếc máy bay trinh sát của địch quần đảo nhiều lần, nhưng chúng chỉ thấy chiếc ghe mắc cạn và mấy ngư dân ở trần đang phơi lưới!

Toàn bộ số vũ khí của chuyến tàu này đã bổ sung kịp thời cho các đơn vị vũ trang của tỉnh Bà Rịa-Long Khánh mở rộng vùng giải phóng và góp phần giành thắng lợi trong chiến dịch Bình Giã 1964-1965, đòn tiến công quan trọng đánh bại hoàn toàn chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ-ngụy trên chiến trường miền Nam.

Kế tiếp thắng lợi của chuyến tàu này, vào hồi 22 giờ đêm 22/12/1964, một chuyến tàu khác dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Lê Quốc Thắng đã cập an toàn vào cửa biển Lộc An chuyển 75 tấn hàng lên Bến Tranh an toàn, kịp thời cung cấp vũ khí cho các đơn vị lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ, góp phần lập nên những chiến công vang dội: Dầu Tiếng, Đồng Xoài, Bầu Bàng, Phước long… mùa hè năm 1965.

Trở lại cửa biển Lộc An thăm di tích lịch sử, nơi đã từng ghi dấu những chiến công thầm lặng mà oanh liệt của quân và dân ta trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ, lòng mỗi chúng ta không khỏi bồi hồi, xúc động. Mỗi địa danh Cồn Cửa, Bến Tranh, Rạch Ông Sao, Sông Sau… chỉ cần nhắc tên cũng gợi lại biết bao sự tích anh hùng, mãi mãi làm nức lòng các thế hệ mai sau.

Vinh Quang

Sơn Mỹ (Quảng Ngãi) – Nơi vang vọng tiếng gọi lương tâm

Tháng Tư 3, 2011 Bình luận đã bị tắt

QĐND Online – Xã Sơn Mỹ (Tịnh Khê), thuộc huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, nằm cách thị xã khoảng 12km về phía đông, có 4 thôn: Tư Cung, Mỹ Lai, Trường Định và Cổ Lũy. Thôn Cổ Lũy nằm sát biển, phía trước là bờ biển dài trên 7 km với bãi cát vàng óng ả, một bãi biển đẹp của duyên hải miền Trung Nam Bộ. Phía sau là con sông Kinh- một nhánh của sông Trà Khúc chảy ra biển Đông qua cửa Sa Kỳ. Trước biển, sau sông như một ốc đảo, là một trong 12 cảnh đẹp của tỉnh Quảng Ngãi, có mỹ danh “Cổ Lũy cô thôn”. Xóm Khê Hội (Mỹ Lai 2) là xóm nhỏ đầu thôn Cổ Lũy. Thôn Tư Cung nằm phía tây xã, án ngữ con đường tỉnh lộ 24B từ thị xã Quảng Ngãi xuống. Nơi đây, ruộng nước xen lẫn với xóm làng; các xóm dân cư ngăn cách bởi các cánh đồng. Quanh thôn có lũy tre bao bọc, đầu thôn có cây to bóng mát, đường vào thôn từ xóm này qua xóm khác chỉ có một, lỗ chỗ vết chân trâu … Hai thôn Mỹ Lai và Trường Định nằm giữa xã, đất rừng pha cát, cao ráo và bằng phẳng, thuận tiện cho việc đi lại, kể cả cơ giới. Thời miền Nam còn nằm dưới ách thống trị của Mỹ- ngụy, trên bản đồ tác chiến của quân đội Mỹ, chúng lấy địa danh một vị trí trung tâm (Mỹ Lai), sau đó thêm các con số để chỉ các vùng lân cận. Do đó, hai thôn Mỹ Lai và Trường Định còn có tên Mỹ Lai 2, Mỹ Lai 3, Mỹ Lai 5, Mỹ Lai 6.

Cách đây 41 năm, chỉ trong buổi sáng ngày 16-3-1968, tại hai xóm Khê Hội (Mỹ Lai 2) và Thuận Yến (Mỹ Lai 4) thuộc xã Sơn Mỹ, quân xâm lược Mỹ đã gây ra một tội ác tày trời làm nhức nhối lương tâm nhân loại, thảm sát 504 đồng bào ta, trong đó có 182 phụ nữ (17 người đang mang thai), 173 trẻ em (có 56 em dưới 5 tháng tuổi), 60 cụ già trên 60 tuổi, 89 trung niên, cùng 247 ngôi nhà bị thiêu hủy, hàng ngàn trâu bò, gia súc bị giết.

Sáng ấy, như lệ thường, nhân dân Sơn Mỹ dậy sớm, chuẩn bị cho một ngày lao động mới, bỗng đâu những loạt đạn pháo từ các trận địa ở núi Răm (Bình Liên, Bình Sơn), chi khu Sơn Tịnh, tiểu khu Quảng Ngãi cấp tập bắn vào Sơn Mỹ. Pháo nổ rung chuyển trời đất, khói lửa mù mịt như xé nát không gian, bầu trời, muốn chôn vùi tất cả: nhà cửa, sinh vật, đến từng ngọn cỏ, lá cây… Hơn 30 phút bắn pháo vừa dứt thì đến lượt trực thăng vũ trang oanh kích. Cuộc oanh kích của pháo binh và trực thăng kéo dài hơn một tiếng đồng hồ thì đến lượt từng toán trực thăng chở quân (mỗi toán từ 9 đến 11 chiếc) từ hướng Chu Lai bay vào đổ quân xuống vạt ruộng phía tây thôn Tư Cung và bãi đất trống trên rừng bà Chín Cựu, gần xóm Khê Hội, thôn Cổ Lũy. Lính Mỹ vừa chạm chân xuống đất liền triển khai ngay đội hình chiến đấu, bao vây hai xóm nhỏ (đã chấm dấu đỏ sẵn trên bản đồ) là Mỹ Lai 2 (xóm Khê Hội) và Mỹ Lai 4 (xóm Thuận Yên). Những người ẩn nấp trong các căn hầm tránh pháo ở ngoài đồng tưởng chỉ là một cuộc càn quét bình thường như mọi khi, ai dè… Một cảnh tượng khủng khiếp đã diễn ra ở hai xóm Khê Hội và Thuận Yên: Cây cối đổ nát, nhà cháy, người chết la liệt. Hầm trú ẩn nào cũng bị bọn lính bộ binh Mỹ dùng mìn đánh sập giết những người trong hầm, ai còn sống hay bị thương chạy lên thì bị chúng dùng lê đâm hoặc dùng tiểu liên bắn chết ngay tại chỗ. Nhà nào cũng có người chết, toàn người già, đàn bà, trẻ em. Chết dưới hầm, chết trên miệng hầm, chết trong nhà… Xác chết nằm la liệt.

Tuy nhiên, cuộc “xạ kích’ vào Mỹ Lai 2 cũng chỉ là thứ yếu, mũi chủ yếu vẫn là Mỹ Lai 4. Ở đây, chúng sử dụng lực lượng 2 đại đội, một làm nhiệm vụ bao vây, một dùng để tàn sát. Và cuộc tàn sát theo kiểu phát xít Hít-le của chúng diễn ra ở đây rất bài bản, chính quy: Dùng trực thăng và lính bộ binh bao vây không cho một người dân nào chạy ra khỏi làng. Hễ trông thấy một vật di động nào là ngay lập tức phóng rốc- két, dùng đại liên và tiểu liên của bộ binh đặt trên máy bay tiêu diệt ngay. Khi đã bao vây chặt ngôi làng, lính Mỹ “như một bầy thú hung hăng xông thẳng vào thôn xóm bắn giết. Chúng chia nhau làm ba tốp: một tốp giết người, một tốp giết súc vật, tàn phá hoa màu và tốp còn lại đi đốt nhà. Chúng đi tới đâu là gây cảnh người chết, nhà cháy, cây cối xơ xác, tiêu điều đến đó” (Thông báo ngày 28-3-1968 của Ủy ban Dân tộc giải phóng tỉnh Quảng Ngãi). Thây người chồng chất, máu chảy ngập đồng, chỉ trên một đoạn mương chưa đầy 30m đã có 170 dân thường bị sát hại dưới họng súng của tên trung úy Mỹ Calley và binh lính của hắn. Nhiều người bị thương rên la còn cựa quậy, chúng liền dùng tiểu liên điểm xạ từng người một để kết liễu đời họ.

Chỉ một năm sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước được một năm (năm 1976), Đảng bộ và nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đã cho xây dựng Khu chứng tích Sơn Mỹ để tưởng nhớ đến những người dân thường bị lính Mỹ sát hại dã man trong chiến tranh. Quần thể Khu chứng tích nằm trên phần đất từng xảy ra vụ thảm sát, từ cổng Khu đi vào, ở cuối con đường là tượng đài chính, nghi ngút khói hương. Trên bệ là nhóm tượng các nạn nhân với vẻ mặt đau đớn tột cùng. Hai bên lối vào còn nhiều tượng cỡ nhỏ miêu tả tư thế của các nạn nhân xấu số. Nhà chứng tích nằm bên trái lối vào. Đó đây và phía trước hai bên lối vào là những cây xén tỉa hình các nấm mồ. Các vật trưng bày trong Nhà chứng tích là những tư liệu ảnh, vật dụng minh chứng về vụ thảm sát. Ngoài khuôn viên Nhà chứng tích còn có con mương là nơi 170 người bị thảm sát tập thể; 11 nền nhà với 11 tấm bia trong số 24 gia đình không còn người nào sống sót, trên mỗi tấm bia đều ghi tên tuổi những thành viên trong gia đình; nấm mồ chôn chung 11 người, giếng nước cụ Hương Thơ bị lính Mỹ đẩy xuống… Đi qua nơi đây, không ai cầm được nước mắt. Khu Chứng tích Sơn Mỹ không phải là nơi khơi gợi sự thù hận mà là nơi vang vọng tiếng gọi lương tâm nhân loại đang khao khát cuộc sống hòa bình./.

TRANG THU

Tân Kỳ (Nghệ An) – Nơi khởi đầu Đường Hồ Chí Minh huyền thoại

Tháng Tư 3, 2011 Bình luận đã bị tắt

QĐND Online – Mặc dù Tân Kỳ là huyện ra đời muộn nhất trong các huyện của tỉnh Nghệ An (tháng 4-1963), nhưng đất này đã có từ lâu đời, từng là địa bàn chiến lược quan trọng qua các thời kỳ lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Đời Trần, đây là đất phên dậu. Vua tôi nhà Trần đã dựa vào đất này để giữ yên bờ cõi phía tây của đất nước. Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược (thế kỷ XV), đất này từng là “đất đứng chân” của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, dưới sự lãnh đạo của người anh hùng áo vải Lê Lợi. Hào khí “Trúc chẻ, tro bay” của cuộc khởi nghĩa, sau phát triển thành chiến tranh giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ tàn bạo của nhà Minh cũng bắt đầu từ đây. Thế kỷ XVIII, vùng này là nơi dấy binh của nghĩa quân Lê Duy Mật chống lại chúa Trịnh. Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược nước ta, nơi đây là địa bàn hoạt động của nghĩa quân Cần Vương và các cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng, Nguyễn Xuân Ôn, Lê Doãn Nhạ, Lang Văn Thiết.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tân Kỳ là một bộ phận của miền hậu phương Khu 4, đồng bào các dân tộc trong huyện đã tích cực đóng góp máu xương và của cải vào cuộc kháng chiến, đặc biệt góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy non sông, chấn động địa cầu”. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nơi đây là trọng điểm đánh phá ác liệt của máy bay Mỹ do địa bàn huyện nằm trên tuyến đường chiến lược 15 và là nơi khởi đầu của đường chiến lược Hồ Chí Minh lịch sử. Dưới mưa bom, bão đạn của kẻ thù, nhân dân các dân tộc trong huyện đã ra sức thi đua chiến đấu và phục vụ chiến đấu, chi viện sức người sức của cho tiền tuyến với khẩu hiệu: “mỗi xóm, mỗi thôn là một trận địa bắn máy bay”, “thóc thừa cân, quân thừa người”. Trên các tuyến đường chiến lược, nhân dân và các lực lượng vũ trang của Tân Kỳ xác định rõ “xe chưa qua, nhà không tiếc”, hăng hái tham gia phá bom nổ chậm, bom từ trường, san lấp, sửa chữa hơn 100 km đường qua địa bàn huyện luôn thông suốt để đêm đêm từng đoàn xe yên tâm lăn bánh chi viện cho tiền tuyến. Những Phà Sen, Khe Thiềm, Trại Lạt trở thành những địa danh nổi tiếng do chiến công bắn máy bay Mỹ và đảm bảo an toàn giao thông; trở thành địa danh thân thuộc, tin cậy của những chiến sĩ lái xe mỗi lần qua đây. Tân Kỳ còn là hậu cứ quan trọng của Quân khu 4, nơi các binh đoàn chủ lực tập kết, huấn luyện để tăng cường cho các chiến trường B, C, K.

Đặc biệt, trong 6 năm (1968-1973), Đảng bộ, nhân dân Tân Kỳ đã đón nhận, đùm bọc hơn 3 vạn đồng bào tuyến lửa thuộc các huyện Vĩnh Linh, Gio Linh, Cam lộ (Quảng Trị) sơ tán chiến tranh. Vừa phải đối phó với chiến tranh phá hoại leo thang của Mỹ, vừa phải đảm bảo đời sống cho nhân dân huyện nhà, đóng góp nuôi quân, Tân Kỳ còn phải lo cho 3 vạn đồng bào sơ tán có cái ăn, chỗ ở, nơi học tập, đất sản xuất… Nhân dân Tân Kỳ đã nêu cao nghĩa đồng bào, tình thân ái chia sẻ ngọt bùi, nóng lạnh cùng Quảng Trị những ngày đồng bào đi sơ tán chiến tranh khiến nhiều người coi đây là quê hương thứ hai của mình.

Trong cuộc chống Mỹ, cứu nước, nhân dân Tân Kỳ đã hăng hái sản xuất, đóng góp hang vạn tấn lương thực, thực phẩm cung cấp cho các đơn vị bộ đội, thanh niên xung phong đóng quân trên địa bàn. Có tới 17.300 nam nữ thanh niên Tân Kỳ nhập ngũ trực tiếp đánh giặc, đi thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến phục vụ các chiến trường trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đánh giá cao công lao đóng góp của nhân dân các dân tộc trong huyện Tân Kỳ vào cuộc kháng chiến Mỹ, cứu nước, Đảng và Nhà nước đã phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang cho Lực lượng vũ trang Huyện và các xã: Kỳ Sơn, Nghĩa Hợp, Nghĩa Đồng, Nghĩa Bình, Tiên Kỳ, Giai Xuân.

Ngày nay, cơ hội để huyện Tân Kỳ bứt phá nhanh trên bước đường phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đẩy mạnh CNH, HĐH đã bắt đầu. Con đường Hồ Chí Minh thời bình đi qua 8 xã và thị trấn mở hướng phát triển cho dịch vụ thương mại và du lịch. Các cơ sở công nghiệp của Trung ương, của tỉnh như đường, bột giấy, chế biến sữa, chế biến bột sắn, sản xuất nước dứa cô đặc sẽ đưa Tân Kỳ vào vùng nguyên liệu tạo cho nhân dân khai thác hiệu quả hơn mọi tiềm năng mà thiên nhiên ưu đãi cho miền đất lịch sử này.

TRANG THU

Phà Bến Thuỷ trong cuộc chiến chống Mỹ, cứu nước

Tháng Tư 3, 2011 Bình luận đã bị tắt

QĐND Online- Phà Bến Thủy qua dòng sông Lam (còn gọi sông Cả) ở đoạn cuối địa phận phía nam tỉnh Nghệ An. Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, phà Bến Thủy vượt sông Lam là một trong những điểm trung chuyển chi viện cho chiến trường miền Nam đánh Mỹ.

Ngày 5-8-1964, đế quốc Mỹ chính thức gây cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân. Trong ngày này, máy bay Mỹ đã bắn phá phà Bến Thủy, làm 2 công nhân-tự vệ phà hy sinh. Từ tháng 4-1965 trở đi, máy bay Mỹ đánh phá phà Bến Thủy liên tục. Trong trận chiến đấu quyết liệt với máy bay Mỹ ngày 8-4-1965, một phà sắt và một ca nô bị địch đánh chìm. Từ ngày 15 đến ngày 18-4-1965, cứ mỗi ngày địch dùng từ 5 đến 10 lần tốp máy bay đánh phá vào thành phố Vinh và khu vực phà Bến Thủy. Địch kéo dài lối đánh bất ngờ, đánh tập kích nhiều hướng, không ngày nào, tháng nào trong năm 1965, phà Bến Thủy không bị đánh phá. Năm 1966, địch đánh nhiều trận ác liệt hơn, điển hình là ngày 30-6-1966, địch dùng 162  lần máy bay đánh phá suốt ngày đêm, khống chế mọi hoạt động của ta trên bến, trên sông. Ngày 24-7-1967, địch cho 27 lần tốp máy bay đánh liên tục bến phà. Trận này tiếp trận kia, vùng trời  phà Bến Thủy nóng bỏng trong đạn bom và nắng gió Lào. Hầu hết trong các trận chiến dấu với không quân và hải quân Mỹ, để bảo vệ bến phà thông xe, thông tuyến, các chiến sĩ tự vệ ta đều phải chịu thương vong, có trận thương vong đến 7-8 người… Cứ thế trong suốt 8 năm (1964-1972) chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, Đội công nhân – tự vệ phà Bến Thủy đã lập nên kỳ tích trên mặt trận giao thông vận tải. Họ đã chiến đấu bảo vệ và bảo đảm thông phà, thông tuyến. Trong điều kiện cực kỳ khó khăn, 100 cán bộ, công nhân-tự vệ phà Bến Thủy đã biết phối hợp toàn diện, trong ngoài, trên dưới, đặc biệt phối hợp cùng bộ đội hải quân và các đơn vị pháo cao xạ vừa tổ chức đánh máy bay địch, vừa tổ chức vượt sông nên dù tình huống phức tạp đến đâu họ đều vượt qua.

Trải 8 năm chiến đấu qua hai cuộc chiến tranh phá hoại, mỗi cán bộ, chiến sĩ phà Bến Thủy phải chịu 150 quả bom và đạn các loại. 26 cán bộ, chiến sĩ bến phà hy sinh, 92 người bị thương, đã có lúc số hy sinh và thương vong lên tới 75% quân số, nhưng bến phà vẫn thông suốt. Điều đó khẳng định sức mạnh chân lý thời đại Hồ Chí Minh: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, sức mạnh của cuộc chiến tranh nhân dân do Đảng lãnh đạo, sức mạnh của một tập thể luôn biết phát huy khả năng của mọi thứ vũ khí, trang bị có trong tay, luôn luôn chủ động, kiên quyết, triệt để, bền  bỉ vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, đoàn kết gắn bó, chấp hành chỉ thị, mệnh lệnh vô điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ. Tập thể cán bộ, chiến sĩ phà Bến Thủy xứng đáng được Nhà nước hai lần tuyên dương Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Các đồng chí Nguyễn Trọng Tường, Nguyễn Hữu Tùng vinh dự được phong tặng Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Phà Bến Thủy là một hiện tượng lịch sử của mặt trận giao thông vận tải trên địa bàn Quân khu 4 thời chống Mỹ, cứu nước.

HÀ THÀNH

Xuân Lộc- Địa danh làm rung chuyển Nhà Trắng mùa Xuân 1975

Tháng Tư 3, 2011 Bình luận đã bị tắt

Thị xã Xuân Lộc (trước 30 – 4- 1975) thuộc tỉnh Long Khánh, nằm cách Sài Gòn 60 km về phía Đông Bắc, án ngữ trên nhiều trục giao thông quan trọng như: quốc lộ 1, quốc lộ 20, tỉnh lộ 3 và tuyến đường sắt Bắc-Nam. Trong thị xã gồm 6 ấp, 1 khu gia đình binh sĩ với 28.000 dân, đa số là gia đình những ngụy quân của Pháp, người miền Bắc di cư sau năm 1954; số này được bố trí ngay ở những vùng ven, tạo thành vành đai ngăn chặn sự xâm nhập của ta từ xa. Xác định đây là địa bàn phòng thủ trọng yếu, án ngữ trước cửa ngõ Sài Gòn, nên ngay từ khi nhảy vào xâm lược miền Nam, Mỹ đã xây dựng thị xã này thành một căn cứ quân sự lớn, với nhiều căn cứ như: sư đoàn 18 ngụy, bộ chỉ huy khu 33 chiến thuật, căn cứ thiết giáp, căn cứ pháo binh Hoàng Diệu, sân bay Cáp Rang, cơ quan cố vấn Mỹ…

Để cơ động phòng thủ, chúng xây dựng các đường hành lang trải nhựa chạy quanh thị xã tiếp giáp các ấp vùng ven. Đặc biệt, sau khi thành phố Đà Nẵng bị quân ta đánh chiếm và làm chủ, tướng Uây-oen, tham mưu trưởng lục quân Mỹ đã trực tiếp đôn đốc quân ngụy tổ chức một tuyến phòng thủ mới, kéo dài từ Phan Rang qua Xuân Lộc đến Tây Ninh, trong đó Xuân Lộc là điểm trọng tâm, nhằm ngăn chặn bước tiến quân của ta theo đường số 1 và đường số 20 đánh vào Biên Hòa-Sài Gòn. Uây-oen chỉ thị cho Nguyễn Văn Thiệu và các tướng ngụy: phải giữ cho được Xuân Lộc, mất Xuân Lộc là mất Sài Gòn. Vì vậy, Nguyễn Văn Thiệu đã dốc lực lượng và phương tiện “tử thủ” ở Xuân Lộc với mong muốn tạo được một thắng lợi để củng cố lại tinh thần cho quân ngụy và hối thúc viện trợ của Mỹ, đợi mùa mưa tới chuyển sang phản công giành lại những vùng đã bị mất. Từ dự tính như vậy, quân ngụy đã tập trung một lực lượng lớn phòng thủ Xuân Lộc gồm: sư đoàn 18 (còn đủ ba chiến đoàn), trung đoàn 5 thiết giáp, 8 tiểu đoàn bảo an, 20 đại đội địa phương quân, hàng nghìn cảnh sát và phòng vệ dân sự cùng lực lượng pháo binh, không quân chi viện tối đa. Lực lượng ứng cứu trực tiếp có lữ đoàn thiết giáp 3 ở Biên Hòa, lữ dù 1 ở Sài Gòn…

Về ta, Quân đoàn 4 được giao nhiệm vụ tiến công Xuân Lộc trong điều kiện thời gian chuẩn bị chiến đấu ngắn, một số đơn vị bị thương vong chưa được củng cố bổ sung kịp thời, đạn pháo và phương tiện vận chuyển thiếu, đường cơ động xa, sức khỏe của bộ đội chưa được hồi phục sau đợt chiến đấu liên tục, dài ngày, lại phải đột phá vào nơi phòng thủ mạnh của địch ở địa hình không thuận lợi. Nhưng trước tình hình địch đang hoang mang, dao động, để chớp thời cơ, giành quyền chủ động ngay từ đầu, Quân đoàn chủ trương vừa “đánh chắc, tiến chắc”, vừa “khẩn trương, táo bạo” sử dụng tập trung bộ binh, xe tăng, pháo binh tiến công thẳng vào sở chỉ huy tiểu khu và sư đoàn 18 ngụy. Theo phương án tác chiến, ta sử dụng Sư đoàn 7 tiến công hướng chủ yếu, từ phía đông đánh chiếm căn cứ sư đoàn 18 ngụy. Sư đoàn 341 đảm nhận hướng thứ yếu, từ phía Bắc đánh xuống, chiếm tiểu khu Long Khánh và các mục tiêu trong thị xã…

5 giờ 40 phút ngày 9-4, quân ta từ hai hướng đồng loạt tiến công Xuân Lộc. Trên hướng bắc, Trung đoàn 226 (Sư đoàn 341) thọc sâu đánh chiếm khu thông tin, khu cố vấn Mỹ, khu cảnh sát; nhưng ngay sau đó, địch đã tập trung lực lượng phản kích quyết liệt, ta phải dừng lại bên ngoài sở chỉ huy tiểu khu. Trên hướng đông, Trung đoàn 165 (Sư đoàn 7) có xe tăng dẫn đầu tiến công vào căn cứ sư đoàn 18 ngụy, nhưng chỉ chiếm được một phần hậu cứ chiến đoàn 52 ngụy. Tại vòng ngoài, các Trung đoàn 270, Trung đoàn 209 đánh bại hai tiểu đoàn, diệt 7 xe tăng của chiến đoàn 43 và 48 ngụy từ Tân Phong và Núi Thị vào cứu viện cho thị xã, giải phóng ấp Bảo Toàn. Sư đoàn 6 diệt 5 chốt trên đường 1, thu 2 khẩu pháo 105 ly, buộc chiến đoàn 52 ngụy phải bỏ Túc Trưng kéo về ngã ba Dầu Giây.

Những ngày tiếp sau, tình hình chiến đấu trở nên căng thẳng, ta sử dụng lực lượng dự bị vào chiến đấu và gây cho địch nhiều thiệt hại nhưng chúng vẫn ngoan cố dựa vào công sự và được chi viện cả về binh lực và hỏa lực, tiếp tục chống trả ta một cách điên cuồng. Máy bay địch đánh phá ác liệt vào đội hình ta và hủy diệt các mục tiêu của chúng đã mất. Thương vong của các đơn vị ta tăng cao, 9 xe tăng ta sử dụng vào trận đánh đã bị bắn cháy và hỏng 6 chiếc, pháo 85 và 57 hỏng gần hết vì bom, pháo địch… Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh Quân đoàn tổ chức đánh giá lại tình hình, thay đổi cách đánh mới, ngừng tiến công các vị trí địch trong thị xã, tổ chức giữ vững bàn đạp, duy trì áp lực thường xuyên, thực hiện các biện pháp nghi binh, làm cho địch tưởng rằng ta đang chuẩn bị đánh tiếp. Đồng thời, sử dụng Sư đoàn 6 cùng Trung đoàn 95B đánh chiếm Dầu Giây, tạo thế cô lập hoàn toàn Xuân Lộc. Trong khi Nguyễn Văn Thiệu tuyên truyền rùm beng về “chiến trắng Xuân Lộc”, về “khả năng chiến đấu của quân lực Việt Nam cộng hòa đã được phục hồi” thì quân ta đã tiến công làm chủ ngã ba Dầu Giây, giải phóng toàn bộ đường 20. Đường số 1 từ Xuân Lộc tới Bàu Cá bị cắt, Biên Hòa trở thành điểm tiền tiêu nhưng địch không còn mấy lực lượng để phòng thủ, chúng buộc phải bỏ Xuân Lộc tháo chạy về Biên Hòa… Thị xã Xuân Lộc được hoàn toàn giải phóng.

“Cánh cửa thép” Xuân Lộc ở cửa ngõ Sài Gòn bị đổ vỡ không chỉ làm rung chuyển toàn bộ hệ thống phòng thủ còn lại của địch ở xung quanh Sài Gòn, làm suy sụp thêm tinh thần chiến đấu của quân ngụy, mà còn làm rung chuyển cả Nhà trắng và Lầu năm góc. Ngay sau khi được tin Xuân Lộc thất thủ, Uây-oen – tác giả của công trình lập tuyến phòng thủ Xuân Lộc đã phải thốt lên “Thế là hết! Tình hình quân sự là tuyệt vọng”. Còn Tổng thống Pho đã ngậm ngùi nói: “Chiến tranh đã kết thúc với Mỹ, không thể giúp Sài Gòn được nữa, họ phải đương đầu với bất cứ số phận nào đang đợi họ”./.

Tạ Quang

Thượng Đức-Địa danh nổi tiếng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

Tháng Tư 3, 2011 Bình luận đã bị tắt

QĐND Online – Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Thượng Đức ở phía tây tỉnh Quảng Đà (nay là Quảng Nam), cách thành phố Đà Nẵng 40 km theo đường chim bay, là tiền đồn bảo vệ căn cứ liên hiệp quân sự Đà Nẵng, một trong những căn cứ lớn của địch ở miền Nam. Sau Hiệp định Pa-ri (1973), Thượng Đức trở thành căn cứ  xuất phát các cuộc hành quân lấn chiếm của địch. Nông Sơn nằm trong thung lũng sông Thu Bồn. Thượng Đức nằm trong thung lũng sông  Vu Gia, như hai nhánh cây xòe ra, cắm sâu vào lòng dãy Trường Sơn  mà gốc cây là vùng B- Đại lộc và quận lỵ Đức Dục. Nhìn từ góc độ quân sự ở mặt trận Quảng Đà, thì vùng này có tầm quan trọng đặc biệt. Từ trước tới đây, nó là hậu cứ của Quân giải phóng ở mặt trận 4, nhưng sau ngày ký Hiệp định Pa-ri, bị quân ngụy lấn chiếm trái phép nên trở thành vùng tranh chấp. Ba phía: bắc, tây, nam đều là vùng căn cứ của ta, được nối với nhau bằng đường sông, đường bộ rất thuận tiện cho việc cơ động lực lượng. Thượng Đức nằm trên một địa hình rất hiểm yếu, ba bề là núi cao có nhiều dốc đứng, phía đông bằng phẳng là nơi hợp điểm của sông Côn và sông Vu Gia, nước sâu và chảy xiết. Ở đây chỉ có đường 14 qua Ái Nghĩa về Đà Nẵng. Đoạn đường từ Thượng Đức lên Bến Hiên, địch đã bỏ từ lâu. Phía tây và tây bắc, địch tổ chức nhiều tiền đồn trên các điểm cao.

Thượng Đức là một cứ điểm phòng thủ kiên cố, địch lợi dụng thế hiểm của địa hình xây dựng một hệ thống phòng thủ liên hoàn, tất cả các cơ quan chỉ huy, trung tâm thông tin, trạm thương binh và các kho tàng dự trữ đều nằm sâu dưới lòng đất. Trong các năm 1968, 1969, 1970, ta đã nhiều lần đánh Thượng Đức, nhưng không thành công. Mỗi lần bị đánh, địch lại tăng cường hệ thống phòng ngự kiên cố hơn. Chúng còn thiết kế hệ thống hầm ngầm hoàn chỉnh và các hỏa điểm bí mật. Địch mệnh danh Thượng Đức là : “Mắt ngọc”, là “Cánh cửa thép bất khả xâm phạm” và huênh hoang tuyên bố: “Khi nào nước sông Vu Gia chảy ngược thì Việt Cộng mới lấy được Thượng Đức”. Lực lượng địch ở đây có tiểu đoàn 79 biệt động biên phòng, đại đội bảo an 704, một trung đội pháo 105 ly, một trung đội cảnh sát dã chiến, một trung đội thám báo, một biệt đội sưu tầm và 21 trung đội dân vệ. Tổng số địch có 884 tên (chưa kể lực lượng phòng vệ dân sự). Ba ban hội đồng của 3 xã Lộc Bình, Lộc Vinh, Lộc Ninh có nhiều tên ác ôn khét tiếng chưa bị diệt. Hỏa lực của địch ở 3 xã này có  18 khẩu pháo cối các loại, 27 đại liên.

Lực lượng ta tham gia đợt mở đầu giải phóng Thượng Đức (28-7/7-8-1974) trong chiến dịch Nông Sơn – Thượng Đức có sư đoàn 304 (thiếu), được tăng cường một tiểu đoàn công binh của Lữ đoàn 209, đại đội tên lửa A.72, đại đội tên lửa B.72 của Quân đoàn 2, hai tiểu đoàn bộ đội địa phương của tỉnh Quảng Đà, 2 đại đội địa phương, một tiểu đoàn đặc công của Quân khu 5. Sau đó được tăng cường thêm trên một đại đội bộ binh có xe tăng và hỏa lực pháo binh, không quân chi viện.

Qua 10 ngày nổ súng chiến đấu, đợt tiến công mở đầu đánh chiếm Thượng Đức kết thúc thắng lợi. Cùng với lực lượng địa phương, các đơn vị của Quân đoàn 2 tham gia chiến dịch đã thực hiện trọn vẹn mục tiêu của đợt hoạt động, san bằng chi khu Thượng Đức và toàn bộ các vị trí địch ở xung quanh, diệt 1.600 tên địch (trong đó có 900 tên bị bắt sống và tiểu đoàn 79 Biệt động quân bị diệt gọn), bắn rơi 13 máy bay, thu hơn 1000 súng các loại; giải phóng quận lỵ Thượng Đức và 4 xã Lộc Ninh, Lộc Vĩnh, lộc Bình và Lộc Quang với hơn 13.000 dân, mở ra một bàn đạp quan trọng uy hiếp căn cứ quân sự liên hiệp Đà Nẵng của địch từ hướng tây nam.

TRANG THU

Ninh Thuận với chiến công bắt sống tướng Ngụy trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975

Tháng Tư 2, 2011 Bình luận đã bị tắt

QĐND Online – Ninh Thuận là tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ, bắc giáp Khánh Hòa, tây giáp Lâm Đồng, nam giáp Bình Thuận và đông giáp biển Đông.

Ninh Thuận được bao bọc ba mặt là núi: Phía bắc và nam tỉnh là hai dãy núi nhô cao ra sát biển; phía đông là vùng núi cao của tỉnh Lâm Đồng. Địa hình có ba dạng: Miền núi, đồng bằng, vùng ven biển. Tỉnh có hai hệ thống sông chính: Hệ thống sông Cái, bao gồm các sông nhánh như sông Mê Lam, sông Sắt, sông Ông, sông La, sông Quao… và hệ thống các sông, suối nhỏ phân bố ở phía bắc và phía nam tỉnh như sông Trâu, sông Bà Râu. Thị xã Phan Rang (của tỉnh) nằm trên giao điểm của ba trục giao thông chiến lược là đường sắt Bắc-Nam, quốc lộ 1A, đường số 11 đi Đà Lạt. Phan Rang – Tháp Chàm cách thành phố Nha Trang 105km, cách Đà lạt 110km, cách Thành phố Hồ Chí Minh 350km.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, việc Mỹ-ngụy để mất vùng đất quân khu 1 và phần lớn quân khu 2 vào tay quân giải phóng, thì việc tổ chức tuyến phòng thủ Phan Rang nhằm che đỡ cho Sài Gòn từ xa trở thành vấn đề có ý nghĩa chiến lược quan trọng. Địch tính toán rằng, sau khi giải phóng xong các tỉnh miền Trung, ta sẽ phải để lại nhiều đơn vị giữ các địa phương đó. Ta chỉ có khả năng tăng cường cho Nam Bộ nhiều nhất một quân đoàn, hành quân nhanh nhất thì cũng mất hai tháng. Nếu chúng cầm cự được với các quân đoàn chủ lực của ta trên các mặt trận cho đến mùa mưa (tức là đầu tháng 6) thời tiết sẽ gây nhiều khó khăn, ta sẽ không thể tổ chức đánh lớn Sài Gòn trong mùa tới. Địch sẽ có thời gian để củng cố lực lượng và tổ chức phản công giành lại những vùng đất đã mất. Với sự tính toán chủ quan như vậy, ngày 2-4-1975, chính quyền Sài Gòn quyết định sáp nhập các phần đất còn lại của quân khu 2 vào quân khu 3; đồng thời lập bộ tư lệnh tiền phương quân khu 3 đóng tại sân bay Thành Sơn (bắc thị xã Phan Rang) do trung tướng Nguễn Vĩnh Nghi cầm đầu. Đồng thời, chúng tổ chức tuyến phòng thủ Phan Rang với lực lượng hơn 10.000 quân cùng địa hình có lợi, lại được sự chi viện lớn của cả lực lượng hải quân và không quân.

Thế nhưng chúng đã lầm, theo chỉ thị của Trung tướng Lê Trọng Tấn, Phó Tổng Tham mưu trưởng, Tư lệnh cánh quân Duyên Hải, Sư đoàn 3 (Quân khu V) gấp rút hoàn thành công tác chuẩn bị đánh Phan Rang, mở cửa cho Quân đoàn 2 tiến vào giải phóng Sài Gòn. Bằng lối đánh thần tốc, dũng cảm và mưu mẹo, rạng sáng ngày 16-4-1975, Sư đoàn 325 phối hợp với Sư đoàn 3 (Quân khu V) giải phóng thị xã Phan Rang. Vấn đề cấp thiết được đặt ra sau đấy là ta phải chiếm nốt sân bay Thành Sơn, bẻ gãy sự kháng cự cuối cùng của địch ở Ninh Thuận. Để nhanh chóng dứt điểm mục tiêu sân bay Thành Sơn, Bộ Chỉ huy Quân đoàn 2 đã chỉ thị cho sư đoàn 325 tổ chức thêm một mũi bộ binh, xe tăng, từ thị xã Phan Rang đánh lên sân bay Thành Sơn. Ngay sau khi nhận được mệnh lệnh của Quân đoàn, Sư đoàn, Trung đoàn 101 lập tức phái Đại đội 3 bộ binh cùng với xe tăng và hai trung đội của Đại đội 2 bộ binh tiến lên phía tây bắc, đánh chiếm sân bay Thành Sơn. Khi xe tăng và bộ binh Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 101 vận động đến quận lỵ Bửu sơn (Tháp Chàm) phát hiện địch, bộ đội ta lập tức tách làm 2 mũi: mũi số 1 chọc thẳng vào cổng số 1 sân bay Thành Sơn; mũi thứ 2 đánh vào quận lỵ Bửu Đức. Đến 9 giờ 20 phút, Đại đội 2 và xe tăng chiếm gọn quận lỵ Bửu Sơn. Thừa thắng, bộ binh và xe tăng ta đánh thẳng vào khu vực đường băng chính. Trên hướng bắc sân bay, lúc này, các chiến sĩ Trung đoàn 25 và Sư đoàn 3 dùng mìn liên kết phá tung 11 lớp rào kẽm gai, đánh tràn vào căn cứ. Một mũi khác dánh thẳng vào cổng số 2. Đến 9 giờ 30 phút, Trung đoàn 101 bộ binh có xe tăng của Lữ đoàn 203 phối hợp, cùng với các mũi tiến công của bộ binh Trung đoàn 25, Sư đoàn 3 gặp nhau ở khu vực đài chỉ huy sân bay. Quân ta hoàn toàn làm chủ sân bay, thu 40 máy bay còn nguyên vẹn.

Do quân ta bất ngờ ập vào chiếm đường băng, bộ chỉ huy tiền phương quân khu 3 của địch không kịp lên máy bay rút chạy. Nguyễn Vĩnh Nghi cùng một số tướng tá, nhân viên thân cận đành phải vượt rào, cải dạng thành thường dân, tìm đường chạy trốn về phía nam. Nhưng mọi ngả đường đã bị vít chặt. Tối 16-4, trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, chuẩn tướng Nguyễn Ngọc Sang cùng nhiều sĩ quan của bộ chỉ huy tiền phương quân khu 3 địch đang lủi trốn ở khu vực bãi mía thuộc thôn Mỹ Đức (nằm giữa sân bay Thành Sơn và thị xã Phan Rang) bị lực lượng truy quét tàn binh của Sư đoàn 3 tóm gọn.

HÀ THÀNH

Núi Thành –Trận đầu đánh Mỹ

Tháng Tư 2, 2011 Bình luận đã bị tắt

QĐND Online – Đến đầu năm 1965, cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ ở miền Nam nước ta leo thang lên một bước mới, chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ”, xuất con chủ bài quân viễn chinh xâm lược Mỹ, từng bước phản công hòng giành lại quyền chủ động, giành thắng lợi quyết định về chiến lược. Lúc này, vấn đề nóng bỏng và bức thiết nhất được đặt ra là: quân và dân ta liệu có khả năng đánh được quân viễn chinh Mỹ không? Đánh Mỹ và thắng Mỹ bằng cách nào?

Trên chiến trường Quảng Nam, sau khi quân Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng, Tỉnh uỷ, Ban Chỉ huy Tỉnh đội Quảng Nam nhận được thông báo của Bộ Tư lệnh Quân khu V về tình hình chiến sự và dự kiến cửa biển An Hoà là một trong những địa điểm Mỹ có thể đổ quân. Quân khu chỉ thị cho Tỉnh phải chuẩn bị tư tưởng cho các lực lượng vũ trang với tinh thần sẵn sàng cao nhất để đánh Mỹ. Ngày 7 tháng 5 năm 1965, Bộ Tư lệnh Quân khu V giao nhiệm vụ cho Ban Chỉ huy Tỉnh đội Quảng Nam, phải nhanh chóng phát động chuyển tư tưởng bộ đội, du kích từ đánh nguỵ sang đánh cả nguỵ lẫn Mỹ. Tổ chức lực lượng hình thành vành đai bao vây, tiêu hao, tiêu diệt quân Mỹ ở khu vực Kỳ Liên, Kỳ Hà; hạn chế không cho chúng phát triển nhanh ra vùng giải phóng. Trước mắt quyết diệt gọn cho được một đại đội lính Mỹ. Mục tiêu đánh, đơn vị thực hành trận đánh do Tỉnh lựa chọn, quyết định.

Quán triệt nhiệm vụ trên giao, Tỉnh đội Quảng Nam đã chọn đại đội lính thuỷ đánh bộ Mỹ chốt giữ núi Thành làm mục tiêu tiến công.

Núi Thành thực chất là một quả đồi dài 1.250 m, rộng 60 m, có hai mỏm chính: mỏm đông cao 50 m, mỏm tây cao 49 m. Hai mỏm đông, tây cách nhau 500m bởi một “yên ngựa”. Núi Thành có độ dốc thoai thoải, đất đá, cây cối lúp xúp ngang ngực, xen kẽ nhiều loại dây leo chằng chịt. Sáng ngày 17 tháng 5 năm 1965, quân Mỹ càn quét lên vùng giải phóng của ta ở phía tây xã Kỳ Liên và chiếm giữ núi Thành. Đây là vị trí có tầm quan sát xa, khống chế rộng 3 xã Kỳ Sanh, Kỳ Liên, Kỳ Khương và một số điểm chốt khác trong dãy núi răng cưa làm thành hệ thống chốt tiền tiêu bảo vệ cho sân bay Chu Lai, cảng Kỳ Hà, kiểm soát quốc lộ Số 1, đoạn từ An Tân đến dốc Sỏi. Đại đội lính thuỷ đánh bộ Mỹ chốt giữ núi Thành có 140 tên, chia làm 3 cụm chốt. Cụm chốt điểm cao 50 có ban chỉ huy đại đội và hai trung đội (thiếu 1 tiểu đội), có trận địa súng ĐKZ 75mm, trận địa súng cối 81mm. Cụm chốt điểm cao 49 có một trung đội, một trận địa súng ĐKZ 75 mm. Cụm chốt ở mỏm phụ ở phía bắc đồi 50 có một tiểu đội. Trang bị chủ yếu của quân Mỹ ở đây là súng đại liên M60, phóng lựu 79, súng Gơ – răng M2 và lựu đạn M26. Trận địa chốt của chúng được bố trí theo kiểu hình vòng bậc thang từ thấp lên cao; các cứ điểm, trận địa bên trong có thể chi viện các trận địa vòng ngoài bằng cả lực lượng và hoả lực. Chiến hào của chúng sâu đến thắt lưng, xen kẽ có các công sự. Ban ngày, chúng căng bạt che nắng, ban đêm dỡ ra. Giữa các công sự dọc chiến hào là các hố cá nhân. Cách chiến hào ngoài cùng khoảng 5m, chúng rải một lớp rào kẽm gai bùng nhùng xen kẽ trong những bụi gai tạo nên vật cản khiến quân ta khó tiếp cận. Đóng quân trên núi Thành, quân Mỹ không lùng sục, tuần tra rộng mà chỉ trong phạm vi phía trong rào kẽm gai. Ban ngày, chúng dùng ống nhòm để quan sát, nếu phát hiện được mục tiêu hoặc nghi ngờ thì gọi máy bay, pháo binh bắn phá, hoặc dùng súng ĐKZ, súng cối bắn vào mục tiêu. Ban đêm, chúng ở yên trong các công sự, canh gác tại chỗ, tránh phát ra tiếng động, không bắn pháo sáng nhằm đề phòng trinh sát của ta xác định thế phòng ngự và chi tiết phòng ngự. Mọi sinh hoạt từ cung cấp lương thực, thực phẩm, nước uống đến vũ khí, trang bị…, chúng đều dựa vào máy bay trực thăng.

Qua quá trình theo dõi, trinh sát nắm chắc các quy luật hoạt động của quân Mỹ, ta rút ra kết luận:quân Mỹ tuy đông, hoả lực mạnh, chốt giữ trên điểm cao có rào kẽm gai, công sự bố trí nhiều tầng để hỗ trợ nhau, có pháo binh, không quân sẵn sàng chi viện… nhưng điểm yếu vẫn là cơ bản. Đấy là, lính thuỷ đánh bộ Mỹ mới đến chiến trường Việt Nam, còn nhiều bỡ ngỡ. Chúng được huấn luyện tốt về đổ bộ đánh chiếm đầu cầu trong chiến tranh hiện đại, nay bị đẩy lên chốt giữ điểm cao là trái sở trường, lại phải đối phó với chiến tranh nhân dân rộng khắp của ta nên bị động. Công sự, vật cản dã chiến của chúng đã đơn giản lại nằm sâu trong vùng đất giải phóng của ta nên dễ bị cô lập, chia cắt. Nếu ban dêm, ta dùng lực lượng tinh nhuệ, có trình độ kỹ thuật, chiến thuật giỏi, bất ngờ tiến công, đánh gần, đánh nhanh thì có thể hạn chế đựơc sức mạnh hoả lực của địch, kể cả pháo binh và không quân, nhất là chúng không thể dùng xe tăng, bộ binh ứng cứu trong đêm tối. Từ phân tích, đánh giá về địch và căn cứ vào khả năng, trình độ tác chiến tập trung của các đơn vị, Ban Chỉ huy Tỉnh đội Quảng Nam quyết định sử dụng Đại đội 2, tiểu đoàn 70, có tăng cường Phân đội đặc công V.16, làm lực lượng chủ công trong trận đánh Mỹ ở núi Thành. Phương án tác chiến là sử dụng chiến thuật đặc công hoá, bộ đội bí mật tiềm nhập, khắc phục vật cản, áp sát mục tiêu, hình thành thế bao vây, bất ngờ đồng loạt nổ súng; đánh gần bằng lựu đạn, thủ pháo, tiểu liên, kiên quyết thọc sâu vào tung thâm, phát triển chia cắt từng cụm quân địch, từng đoạn chiến hào để tiêu diệt, không cho địch co cụm chống trả.

Sau một thời gian ngắn gấp rút huấn luyện bổ sung và làm công tác chuẩn bị, sáng 25 tháng 5 năm 1965, tại thôn 2, xã Kỳ Thanh, huyện Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam, Đại đội 2 và Phân đội đặc công V.16 làm lễ xuất quân đánh Mỹ. dồng chí Hoàng Minh Thắng, Uỷ viên Thường vụ Tỉnh uỷ, Chính trị viên Tỉnh đội Quảng Nam tham dự lễ giao nhiệm vụ đánh Mỹ cho đơn vị và trao lá cờ Quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược của Đảng bộ Tỉnh cho Đại đội trưởng Võ Thành Nam, để cắm lên núi Thành vào giờ phút chiến thắng.

Đúng 0 giờ 30 ngày 26-5-1965, Đại đội 2 và Phân đội đặc công V16 đã nổ súng tiến công quân Mỹ ở núi Thành. Trận đánh diễn ra trong vòng 30 phút. Với cách đánh thích hợp, tiến công bất ngờ và tinh thần chiến đấu ngoan cường, cán bộ, chiến sĩ ta đã lập nên chiến công vang dội: tiêu diệt gọn Đại đội 2, thuộc Tiểu đoàn 2, Lữ đoàn 3 lính thuỷ đánh bộ Mỹ, thu 14 súng, phá huỷ 2 súng ĐKZ 75mm, 1súng cối 81mm, 3 máy thông tin vô tuyến và nhiều trang thiết bị chiến tranh khác. Đây là đòn phủ đầu choáng váng không những đối với Bộ Tư lệnh Lữ đoàn 3 lính thuỷ đánh bộ Mỹ đóng ở căn cứ Chu Lai, mà còn là nỗi sợ hãi chung của sĩ quan, binh sĩ Mỹ mới chân ướt, chân ráo nhảy vào tham chiến trên chiến trường miền Nam.

HÀ THÀNH